Sau Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, thị trấn Cao Lãnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Long Châu Sa (nay là tỉnh Đồng Tháp) được chọn làm bến tập kết 100 ngày đêm để đưa bộ đội và đồng bào miền Nam ra miền Bắc. Đây là 1 trong 3 điểm tập kết lớn của các tỉnh Nam bộ.



Ngày 07/5/1954, quân ta toàn thắng ở trận Điện Biên Phủ. Ngay ngày hôm sau (08/5/1954), hội nghị Genève khai mạc và đến ngày 20/7/1954 thông qua được văn bản Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Để thi hành hiệp định, quân đội hai bên phải ngừng bắn. Vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) được chọn làm ranh giới tạm thời. Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết về miền Bắc, quân đội Pháp tập trung vào miền Nam để đến ngày 20/7/1956 tổ chức tổng tuyển cử cả nước, thống nhất đất nước.

Ở Nam bộ được chia 03 vùng tập kết quân đội nhân dân Việt Nam để chuyển ra Bắc gồm: Khu Hàm Tân – Xuyên Mộc, khu Đồng Tháp Mười và khu Mũi Cà Mau.
Ởkhu vực Đồng Tháp Mười, đến ngày 23/8/1954 toàn bộ quân đội Pháp kể cả lực lượng võ trang Cao Đài, Hòa Hảo thân Pháp rút ra, giao lại cho quân đội nhân dân Việt Nam gom về tập kết bao gồm quân đội các tỉnh: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Long Châu Sa; các tỉnh miền Đông: Gia Định, Tây Ninh và tình nguyện quân Việt Nam ở Cao Miên.
Thị trấn Cao Lãnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Long Châu Sa (nay là tỉnh Đồng Tháp) là điểm tập kết 100 ngày chuyển quân của khu vực Đồng Tháp Mười. Bến bắc Cao Lãnh là nơi đưa tiễn cán bộ, chiến sĩ, học sinh các tỉnh: Mỹ - Tân - Gò, Long Châu Sa, Gia - Định - Ninh, Phân Liên khu miền Đông và quân tình nguyện rời quê hương xuống tàu tập kết ra Bắc. Cuộc tập kết chuyển quân ra Bắc tại Cao Lãnh diễn ra trong 03 đợt (từ tháng 8 - 10/1954) với tổng số 13.508 người (trong đó tỉnh Long Châu Sa nay là Đồng Tháp là 2.655 người).
Ngày 29/10/1954, chuyến tàu cuối cùng cho những người con ưu tú của miền Nam rời Cao Lãnh để tập kết ra miền Bắc, với tinh thần “Đi vinh quang - Ở anh dũng”.

100ngày tập kết chuyển quân tại Cao Lãnh là một trăm ngày thắm đượm nghĩa tình “quân dân cá nước”. Nhân dân đã đùm bọc, thương yêu bộ đội ta như người thân trong gia đình, bộ đội vừa học tập Hiệp định vừa giúp dân sửa nhà, đắp đường, bắc cầu, dạy học sinh học chữ, ca múa những bài hát cách mạng, làm vệ sinh sông Cao Lãnh v.v..

Đặc biệt, trong thời gian tập kết, Tiểu đoàn 311 của tỉnh cùng góp sức với nhân dân gấp rút xây dựng hai công trình có ý nghĩa to lớn là Đài liệt sĩ và mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Khu Di tích Nguyễn Sinh Sắc ngày nay). Đó cũng là thành quả của 09 năm ròng chiến đấu trong bưng biền để có được 100 ngày sống trong hòa bình, yên lành và hạnh phúc của thời gian tập kết chuyển quân tại Cao Lãnh.


Trong buổi sáng của ngày cuối tháng 8, chúng tôi bồi hồi tìm lại những người con quả cảm đã “Đi vinh quang” năm xưa. Đón tôi bằng nụ cười tươi tắn, khuôn mặt phúc hậu, ông Nguyễn Trung Cang (sinh năm 1939, ngụ Phường 1, thành phố Cao Lãnh) là một trong số những người lên chuyến tàu tập kết ra Bắc.
Nay đã 85 tuổi, nhưng khi nhắc đến những ngày lên tàu tập kết ra Bắc, ông Cang vẫn nhớ như in, ông bồi hồi kể lại “Tôi lên chuyến tàu ra Bắc khi ấy chỉ mới 15 tuổi, ra Bắc học tập để trở về xây dựng quê hương. Còn nhớ khi ấy tôi đang học ở Gò Sa Rài thì nhận lệnh tập kết, tôi di chuyển về Trung đội E ở Cao Lãnh. Một tuần sau tôi và đơn vị được lệnh hành quân về hướng Bắc Cao Lãnh để đi Bắc. Đến bến Bắc chúng tôi xuống tàu Pháp, đến tờ mờ sáng hôm sau, tàu ra tới Cap Saint Jacques (Vũng Tàu bây giờ), rồi sau đó lên tàu Liên Xô để di chuyển ra Bắc”.
Trong ngày cán bộ, bộ đội và học sinh chuẩn bị lên tàu ra Bắc, suốt dọc đường di chuyển đến bến Bắc có rất đông người ra đưa tiễn, vẫy tay chào và càng đến gần bến Bắc người lại càng đông.

Khi đến miền Bắc, ông Cang nằm trong diện đi học ở Trường học sinh miền Nam đến lớp 8, sau đó học ở Trường Bổ túc văn hóa Công nông Trung ương, rồi học đại học và làm công tác giảng dạy tại Trường Thương nghiệp Trung ương (bây giờ là Trường Đại học Thương mại Hà Nội). Năm 1968, ông được cử đi nghiên cứu sinh ở Bungari và năm 1972 bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ (sau ta gọi là Tiến sĩ).
Đầu năm 1975, ông được lệnh đi B trở về miền Nam làm nhiệm vụ tại Sài Gòn. Năm 1978, Tỉnh ủy Đồng Tháp xin ông về làm ở Văn phòng Tỉnh ủy, rồi Giám đốc Sở Nông nghiệp, Giám đốc Sở Khoa học – Công nghệ và Môi trường.
Dù thời gian trôi đi đã lâu nhưng không bao giờ tôi có thể quên được ngày tôi đặt bước chân đầu tiên xuống tàu tại bến Bắc Cao Lãnh cách đây 70 năm, nơi mà từ đó tôi bắt đầu một cuộc đời mới – ông Cang chia sẻ.


70năm trước, ông Lê Trung Sơn (sinh năm 1937), rời xa gia đình, xuống tàu ở bến Bắc Cao Lãnh (khi ấy ông chỉ mới 17 tuổi) để công tác, học tập theo chủ trương của Đảng. Đến năm 1964, ông theo đường Trường Sơn để trở về Nam công tác. Chỉ 10 năm ở miền Bắc nhưng những ký ức trong thời gian đó, những tình cảm, sự chở che, đùm bọc của đồng bào miền Bắc vẫn còn mãi trong tâm trí ông.
Khi nhắc lại hình ảnh chiếc tàu chở cán bộ, học sinh miền Nam rẽ sóng tiến vào Sầm Sơn, giọng ông Sơn nghẹn ngào kể lại “Tôi còn nhớ, khi chiếc tàu vào đến bến ở Sầm Sơn do nước cạn, tàu thì lớn nên không vào được, do đó phải di chuyển bằng thuyền nhỏ vào. Ở trên bờ, có rất đông bà con, nhân dân miền Bắc mọi người vỗ tay, vẫy cờ hoa, kèn, trống khi đồng bào từ thuyền lên bờ. Mọi người tay bắt mặt mừng, số người bị say sóng được dìu lên bờ, chăm sóc chu đáo”.
Nhớ lại thời gian đầu khi mới đặt chân lên đất Bắc, ban ngày chúng tôi tham gia học tập, nhưng mỗi khi đêm về, tôi cũng như nhiều học sinh khác lại nhớ nhà, nhớ cha mẹ. Nhưng được sự quan tâm, đùm bọc của cán bộ, Nhân dân miền Bắc với tinh thần thà chịu đói, chịu rét chứ không để cán bộ, học sinh miền Nam không đủ áo ấm, thiếu cơm ăn. Những tình cảm ấy làm sao tôi có thể quên được – ông Sơn nghẹn ngào nói.
Sau khi đến miền Bắc, ở tuổi 17, ông Sơn cũng như nhiều thanh niên miền Nam khác đã ra sức học tập, tiếp thu kiến thức và nỗ lực rèn luyện với nhiệt huyết trở về cùng đồng đội giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đến năm 1964, ông Sơn theo đường Trường Sơn để trở về Nam công tác. Đến năm 1976, ông Sơn về Đồng Tháp để công tác và giữ nhiều chức vụ quan trọng khác nhau cho đến ngày nghỉ hưu.
70năm đã qua, hôm nay nhớ về những con tàu chở cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam, chúng ta càng thêm nặng nghĩa nặng tình. Sau ngày giải phóng, phần lớn những học sinh miền Nam trở về quê hương, nhiều người đảm nhận những vị trí quan trọng và có những đóng góp nhất định cho quê hương miền Nam, họ đã không phụ lòng tin của Đảng, Bác Hồ và tấm lòng của đồng bào miền Bắc.


Với ý nghĩa lịch sử và tầm vóc của sự kiện chuyển quân tập kết ra Bắc năm 1954, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, tỉnh Đồng Tháp đã huy động nguồn lực xây dựng Tượng đài kỷ niệm sự kiện lịch sử này với diện tích trên 12.000m2, ngay tại địa điểm diễn ra sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh (ngụ Khóm 6, Phường 6, thành phố Cao Lãnh). Công trình được khởi công xây dựng từ năm 2017, với tổng mức đầu tư gần 49 tỷ đồng và được khánh thành vào ngày 29/10/2019.

Đến nay, Di tích này chính là địa chỉ đỏ trong giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ của tỉnh Đồng Tháp hôm nay. Vinh dự hơn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia Địa điểm tập kết ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh.


70năm trôi qua, sự kiện tập kết ra bắc năm 1954 tại Cao Lãnh vẫn còn nguyên giá trị lịch sử. Bài học về tinh thần đoàn kết dân tộc, về ý chí quyết tâm, thống nhất của quân dân ta, ra đi vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp cách mạng cao cả vẫn luôn sáng ngời. Ngày nay, Địa điểm tập kết ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh là “Địa chỉ đỏ” góp phần giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.